Nhà
máy sản xuất đồng hồ Chistopol "Vostok - Восток" được đặt tại thành phố
Chistopol (LB Nga, Cộng hòa Tatarstan).
Lịch
sử của nhà máy sản xuất đồng hồ Chistopol (gọi tắt là ChChZ) bắt đầu vào mùa
thu năm 1941. Vào tháng 11, những chiếc xà lan đầu tiên mang theo thiết bị và
500 nhân viên của Nhà máy đồng hồ số 2 sơ tán khỏi Moskva đã đến thành phố
Chistopol ở phía Nam nơi tiếng súng Phát xít Đức chưa nổ ra. Vào mùa xuân năm
1942, ChChZ bắt đầu sản xuất hàng loạt đồng hồ dành cho quân đội và đến ngày 1
tháng 7, nó đã hoạt động hết công suất để tạo ra nhiều sản phẩm nhất có thể. Các
phân xưởng đã được tạo ra hàng loạt để phục vụ cho các nhu cầu ngoài mặt trận. Nhưng từ tháng 2 năm 1943, theo lệnh của Ủy
ban Nhân dân về vũ khí súng cối, nhà máy bắt đầu sản xuất các sản phẩm thuộc về thời bình. Và thế là chiếc đồng hồ đeo tay nam mang thương hiệu “Kirovsky” lần đầu tiên ra đời tại Liên Xô.
Ngay
sau khi kết thúc chiến tranh, nhà máy bắt đầu sản xuất đồng hồ cơ, đây chính là sản phẩm sản xuất chủ lực của nhà máy.
Năm 1949, nhà máy cho ra đời những
chiếc
đồng hồ đeo tay
nam K-26 Pobeda, đồng hồ treo tường với mặt số phủ dạ quang, đồng hồ cho hãng xe ‘ZIM’,
‘Volga’, ‘Pobeda’, đồng hồ treo tường và đồng hồ treo trên các khu phố, nhà máy công nghiệp.
Vào tháng 7 năm 1950, nhà máy bắt đầu xây dựng các tòa nhà sản xuất của riêng
mình.
Năm
1952, bắt đầu việc
sản xuất đồng hồ Kama kim rốn (kim 2,5)
có khả năng chống sốc và vỏ chống nước, chống bụi. Song song với việc sản xuất đồng hồ đeo tay, các thiết bị
tính giờ cũng được sản xuất cho các ngành khác nhau.
Cũng trong năm đó, tại triển lãm quốc tế ở Milan, lần đầu tiên đồng hồ
Chistopol được công nhận rộng rãi và phổ biến.
Năm 1957, việc sản xuất
đồng hồ chính xác K-28, “Vostok – phương Đông”, “Mir – thế giới”, “Volna– con sóng”, “Saturn – sao thổ”, “Rubin – hồng ngọc”,
với kim giây ở trung tâm hoặc kim rốn. Đây đều là những
chiếc đồng hồ có khả năng chống sốc.
Năm 1962, tại Triển lãm
quốc tế Leipzig, những chiếc đồng hồ Vostok “precision” đã được trao tặng một
huy chương vàng về độ chính xác. Từ năm 1965, Nhà máy Chistopol trở thành
nhà cung cấp đồng hồ chính thức cho Bộ Quốc phòng Liên Xô. Tại thời điểm này, những
chiếc đồng hồ Vostok "comanzdirskie – Chỉ huy" (ở Việt Nam hay gọi là
Vostok chính ủy, nhưng em thấy dịch là chính ủy không đúng lắm) nổi tiếng đã được tạo ra, với thân vỏ vô
cùng chắc chắn và khả năng chống nước tăng lên đáng kể. Từ kinh nghiệm phát triển
chiếc đồng hồ này năm 1967 Nhà máy đã cho ra đời dòng đồng hồ lặn “Amphibian –
Lưỡng cư”, có khả năng chống nước tăng lên đến – 200 mét (20ATM).
Từ năm 1969, tất cả đồng hồ đeo sản xuất tại nhà máy mang
trên mặt số một thương hiệu duy nhất là Vostok, vì vậy nhà máy còn được biết đến
với tên gọi khác là nhà máy sản xuất đồng hồ Chistopol “Vostok”. Việc thành
công trong thị trường sản xuất đồng hồ chuyên nghiệp đồng hồ đã quyết định quá
trình phát triển cho những năm tiếp theo của nhà máy theo hướng phát triển dòng
đồng hồ cơ nhấn mạnh vào sự hoạt động chính xác trong mọi điều kiện đó là ở bất kỳ nhiệt độ nào, trong bất kỳ môi
trường nào, chịu được các tác động mạnh mẽ không ngừng từ bên ngoài, triết lý
thiết kế những chiếc đồng hồ nồi đồng cối đá của Nhà máy ra đời từ đây.
Năm 1972, Nhà máy đã cho ra đời 24 bộ máy với các chức
năng khác nhau như lịch thường niên, lịch ngày, thứ và các cỗ máy tự động. Vào
thời điểm này đồng hồ Vostok đã được xuất khẩu sang 54 quốc gia trên thế giới. Năm
1976, phi hành gia Georgy Grechko, trong chuyến thăm nhà máy, đã cảm ơn các nhà
sản xuất đồng hồ vì đã tạo ra các sản phẩm chất lượng và tặng cho người dân
Chistopol chiếc đồng hồ Vostok mà ông đã đeo khi bay vào không gian.
Trong những năm 1990, Nhà máy Chistopol tiếp tục sản xuất
đồng hồ, mở rộng đáng kể thị trường cho những chiếc đồng hồ được sản xuất. Những
lô đồng hồ lớn được xuất khẩu sang Ý, Mỹ, Thụy Sĩ. Tại Hoa Kỳ, đồng hồ Vostok “Буря
в Пустыне - Desert Storm” là phổ biến nhất.
Năm
2000, Nhà máy đã cho ra đời những chiếc đồng hồ cơ báo thức với khả năng tích
cót lên đến 7 ngày. Năm
2001, Nhà máy Chistopol đã nhận được giải thưởng Olympus quốc gia Nga trong hạng
mục “Công nghệ. Khoa học. "
Đầu
những năm 2000, nhà máy đã phát triển những bộ máy mới cho đồng hồ bổ sung thêm
các tính năng như 24 giờ, lịch mặt trăng.
Nhà máy đồng hồ
Chistopol là một trong hai nhà máy sản xuất đồng hồ của Nga (cùng với nhà máy sản
xuất đồng hồ Petrodvorets Raketa) có đầy đủ dây chuyền sản xuất đồng hồ từ đầu
tới cuối. Nhà máy này cũng là một trong số ít và lớn nhất ở Nga, bên cạnh đồng
hồ còn sản xuất một loạt các thiết bị khác có thể kể đến như đồng
hồ đo áp suất, máy đo tốc độ, máy đếm xung, công tơ điện, đồng hồ đo khí đốt,
nước và các thiết bị khác cho nhà ở, dịch vụ xã hội, công nghiệp và các lĩnh vực
khác của nền kinh tế.
Vào
tháng 9 năm 2010, nhà máy này đã bị tuyên bố phá sản, tuy nhiên, việc sản xuất
vẫn tiếp tục tại một số doanh nghiệp nhỏ tại nhà máy. Một kết thúc buồn cho hầu
hết những nhà máy sản xuất đồng hồ tại Nga sau khi Liên bang Xô Viết sụp đổ.
Bình Luận